Nguồn gốc, ý nghĩa và phong tục Tết trung thu ở Việt Nam

Theo lịch âm, Tết Trung thu là ngày Rằm tháng 8 (15/8 năm Âm lịch) hằng năm. Tết Trung Thu là ngày Tết thiếu nhi hay Tết Đoàn Viên, Tết hoa đăng, Tết trông trăng… Các em thiếu nhi sẽ được tặng đèn ông sao, đèn kéo quân, ăn bánh trung thu, bánh dẻo… Cùng với đó là nhiều hoạt động văn nghệ, sự kiện diễn ra như múa lân, múa rồng…
content:

  1. Nguồn gốc và ý nghĩa ngày Tết Trung Thu

Nguồn gốc của Ngày Tết Trung Thu bắt nguồn từ nhiều sự tích tương truyền khác nhau. Trong đó, có 4 sự tích về ngày Tết Trung Thu như sau:

    1. Sự tích Rằm tháng 8 nhà vua dạo chơi cung trăng.

Chuyện kể rằng, có một năm trăng rằm tháng 8 âm lịch rất tròn và sáng như gương. Vua Đường Minh Hoàng (713 – 741 Tây Lịch) đi dạo trong vườn Ngự Uyển để ngắm trăng thanh gió mát. Bỗng có vị đạo sĩ có phép tiên xuất hiện và đưa vua lên cung trăng.

Tại cung trăng, nhà vua được đắm chìm trong cảnh sắc tiên cảnh bồng lai tuyệt đẹp. Với các điệu múa, giọng hát cực kỳ thánh thót của tiên nữ. Mải vui cùng cảnh vật nên nhà vua quên rằng trời đã gần sáng. Đến khi vị đạo sĩ nhắc nhở thì nhà vua mới quay về nhưng ang còn luyến tiếc. 

Về đến hoàng cung, cũng vị vương vấn cảnh tiên đêm rằm nên mỗi khi đến rằm Tháng 8 hàng năm Nhà vua đã ra lệnh cho dân gian tổ chức rước đèn, bày tiệc rộn ang. Cũng có người cho rằng, tục lệ bày cỗ, giăng đèn trong ngày rằm tháng 8 âm lịch diễn ra là để ăn mừng sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng. 

Dần dần về sau, việc treo đèn, bày cỗ ngày rằm tháng 8 đã trở thành tục lệ truyền thống. Cả người Hoa và người Việt đều làm bánh trung thu (tượng trưng mặt trăng) để cúng, ăn và biếu tặng. 

1.2. Sự tích về chị Hằng Nga

Điển tích khác về Tết Trung Thu gắn liền với cặp vợ chồng Hậu Nghệ và Hằng Nga. Hai người từng là các vị thần sống trên cung trăng. Tuy nhiên, Hậu Nghệ đã bị vu oan nên phải xuống dân gian làm thường dân. 

Đến một ngày nọ, 10 người con trai của Ngọc Hoàng biến thành 10 mặt trời lớn, khiến đất đai trở nên khô cằn, nóng cháy. Lúc này, Ngọc Hoàng không khuyên nổi các con của mình nên đã lệnh cho Hậu Nghệ cứu giúp. Với tài bắn cung tuyệt diệu, chàng đã bắn hạ 9 mặt trời và chỉ để lại duy nhất 1 người con trai của Ngọc Hoàng làm mặt trời. 

Ngọc Hoàng đã trả ơn cho Hậu Nghệ bằng một viên thuốc trường sinh bất tử với lời căn dặn chỉ sau thời hạn 1 năm mới được uống. Lúc về nhà, Hậu Nghệ cất thuốc trong một chiếc hộp và dặn Hằng Nga không được mở. Tuy nhiên, khi Hậu Nghệ không có nhà, Hằng Nga đã mở chiếc hộp ra và nuốt chửng viên thuốc và bay lên mặt trăng. Từ đó, dù thương nhớ chồng nhưng nàng không thể nào xuống lại trần gian. 

Sống dưới Trần Gian, Hậu Nghệ vô cùng nhớ thương vợ nên đã xây một lâu đài trong mặt trời với tên gọi là “Dương”. Hằng Nga trên cung trăng cũng xây lâu đài tương tự với tên là “Âm”

Vào ngày rằm tháng 8 mỗi năm, Hậu Nghệ và Hằng Nga lại được đoàn tụ hạnh phúc. Và Tết Trung thu cũng biểu trưng cho Tết Đoàn Viên. 

1.3. Sự tích chú Cuội trên cung trăng

Nguồn gốc của Tết trung thu tại Việt Nam gắn liền với truyền thuyết chị Hằng và chú Cuội. Câu chuyện kể rằng, có một nàng tiên nữ tên Hằng Nga vô cùng xinh đẹp và luôn yêu quý trẻ con nên thường xuống trần gian để chơi đùa với bọn trẻ. Mặc cho tiên giới không cho phép điều này. 

Vào một hôm nọ, Ngọc Hoàng tổ chức cuộc thi: “Làm bánh ngày rằm”. Phần thưởng chỉ dành cho ai làm được chiếc bánh ngon, đẹp và lạ mắt. 

Chị Hằng đã xuống trần gian hỏi thăm và vô tình gặp được chú Cuội (một anh chàng chuyên nói dóc). Chú Cuội bèn bày cho Hằng Nga làm loại bánh bỏ tất cả nguyên liệu trộn lại rồi đem nướng lên. Nhưng kỳ lạ là các chiếc bánh khi ra lò vô cùng thơm, các em nhỏ sau khi ăn đều khen rất ngon. 

Về lại cung trăng, Hằng Nga mang những chiếc bánh đó dự thi. Tuy nhiên, chú Cuội lại lưu luyến không muốn xa chị Hằng nên đã nắm tay nàng. Sức mạnh kỳ lạ kéo cả Cuội và cây đa đầu làng lên đến tận cung trăng. Ngồi trên cây đa ở cung trăng, chú Cuội thấy được bọn trẻ dưới trần gian vui đùa, chàng thường nhớ nhà nhưng chỉ biết ngồi khóc buồn bã. 

Còn với các chiếc bánh của chị Hằng đã giành được giải nhất, đặt tên là Bánh Trung Thu. Hằng Nga ước cứ rằm tháng 8 mỗi năm, nàng sẽ cùng chú Cuội xuống dưới trần gian chơi. Từ đó, Ngọc Hoàng cũng đã đặt tên cho rằm tháng 8 là Tết Trung Thu. Một ngày Tết dành cho các em nhỏ. 

1.4. Tích về chú Cuội

Dân gian Việt Nam đã quen thuộc với hình ảnh chị Hằng và chú Cuội mỗi dịp Tết Trung thu đến. Đó là sự sáng tạo thú vị của người Việt Nam xưa, theo đó, tích về chú Cuội được kể như sau:

Ngày xưa ở một miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.

Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên:

Trời ơi! Cây này chính là cây có phép “Cải tử hoàn sinh” đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó!

Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong.

Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.

Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn.

Lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên chạy đến tìm Cuội, xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội.

Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì thốt nhiên một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được.

Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa.

Nhưng cũng từ đấy, vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình.

Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào gốc cây quý mà tiểu tiện. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời.

Vừa lúc đó thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng.

Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa….

2. Ý nghĩa ngày Tết Trung Thu

Lúc đầu, Tết Trung Thu là Tết của người lớn. Là dịp để thưởng thức cảnh sắc đêm trăng, ăn bánh, uống trà giữa tiết thu. Vào đêm rằm tháng 8, trăng trời sáng tỏ, trời trong gió mát nên rất hợp để xem thiên tượng, đoán mùa màng cũng như vận mệnh quốc gia. 

Dần về sau, Tết Trung thu trở thành Tết trẻ em. Có các phong tục như phá cỗ trung thu, thắp đèn. Theo truyền thống Việt Nam, Tết trung thu các em nhỏ sẽ được bày cỗ, làm đèn lồng và “Rước đèn ông sao”. 

Ngày Tết Trung Thu cũng là dịp để con cái thấu hiểu được tình thương của cha mẹ, tình cảm gắn bó của gia đình. Mọi người cũng sẽ cùng nhau mua bánh trung thu, trà, rượu để biếu tặng người thân, bạn bè. Giúp tình làng nghĩa xóm, tình thân hữu nghị khăng khít thêm. 

Phong tục truyền thống ngày Tết trung thu ý nghĩa vẫn lưu giữ đến nay. Đặc biệt, với mỗi thời thế khác nhau, ý nghĩa của ngày Tết Trung Thu cũng có những “Sắc màu” phù hợp với từng giai đoạn. 

3. Những hoạt động ngày Tết Trung Thu

Rất nhiều hoạt động diễn ra vào ngày Tết Trung Thu. Đặc biệt là không thể bỏ qua những hoạt động đáng đón chào như:

3.1. Múa lân sư rồng